Tinh hoa trái cây Việt trong từng câu chuyện kể

Tinh hoa trái cây Việt trong từng câu chuyện kể

CÀ PHÊ: Mỏ “kim cương đen” của nông sản thế giới

“Khi tôi uống cà phê, các ý tưởng xuất hiện như đi diễu hành trong quân đội”. (Balzac)

Văn hào Pháp hẳn không ngờ cơn mê cà phê của ông, sau bao nhiêu năm theo chân những người nước ông đến xứ sở nhiệt đới này, nay đã đưa nó lên thành một thức uống dán nhãn “Made in Việt Nam” đi khắp năm châu. 

Trải bao thăng trầm gần 2 thế kỷ, hạt vị đắng mà hương thơm nồng nàn như chuốc say người thưởng thức, đã trở thành thứ không thể thiếu trong đời sống người Việt, được trồng khắp ba miền, nhưng cuối cùng Tây Nguyên mới là vùng đất mà nắng, gió và đất đỏ bazan đi qua… lò nung, kết duyên với cà phê để đến lúc sinh nở, cho ra những “đứa con” khiến dân nghiện cà phê mê mẩn.

“Ở nhà nhất mẹ nhì con/ Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta”. Robusta, rồi Arabica lần lượt vượt đại ngàn, tìm đến xứ người. Đâu phải dễ dàng vượt lên vị trí xuất khẩu đứng thứ hai thế giới sau Brazil, nếu như người trồng, chế biến, xuất khẩu cà phê Việt không trải qua cơn vật lộn, thao thức với những “bảng màu” mùi vị để cho ra những hạt cà phê nâu bóng, để rồi khi cho qua nước sôi, màu đen sóng sánh cộng với mùi như xạ hương ngây ngất thần thánh khiến kẻ nhâm nhi không thể không bật ra một tiếng “khà” như vừa nhấp ngụm rượu hảo hạng. Và điều phải đến, là họ sẵn sàng mở hầu bao. 

Năm 2024 được xem là cột mốc lịch sử của ngành cà phê Việt Nam trong 30 năm qua, Việt Nam đột phá trở thành “ông lớn” của thị trường cà phê toàn cầu với hàng loạt các kỷ lục. 

Lần đầu tiên giá cà phê Việt Nam xếp hạng đắt nhất thế giới, và giá cà phê Robusta xuất khẩu cao hơn cà phê Arabica… Một “viễn tưởng” hoá sự thật, khi con số xuất khẩu cà phê năm nay cán mốc 5 tỷ USD, lập kỷ lục mới của lịch sử xuất khẩu cà phê Việt Nam.

Có một sự kiện mà tín đồ mê cà phê hẳn không thể quên, là ngày 17/8/2024, tại phiên đấu giá cà phê ở Hà Nội, lô cà phê Arabica của Công ty TNHH Pun Coffee, được trồng ở đồi Pun, xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đã đạt giá đỉnh: 1,2 triệu đồng/kg (lô 30kg). 

Chừng đó cũng đủ thấy, ngay tại vùng đất nghèo, dày đặc bom đạn xưa, cà phê đã viết nên bản nhạc của ấm no, sang trọng, và với người làm cà phê Việt, thì không gì là không thể.

Mỏ “kim cương đen” của thế giới. Mệnh danh này dành cho cà phê Việt, hẳn không quá lời

GẠO: “Linh hồn” ẩm thực Việt… 
hạ gục người tiêu dùng khó tính khắp thế giới

Như sữa mẹ dìu con vào đời, hạt gạo với người Việt như chính linh hồn đi suốt cuộc đời họ. Một thuở chật vật thiếu gạo, đất nước lâm cảnh đói nghèo, thì cuộc cách mạng trên ruộng đồng qua tháng năm như đường cày từng hàng kiên nhẫn vỡ đất, để hạt gạo như có phép thần lăn về, làm ấm sực nồng nàn mỗi căn bếp, và no ấm không còn là chuyện phải ngồi mơ màng, toan tính, chính là hóa thân của bao giọt mồ hôi thánh thót như mưa đã tưới tắm đất đai, và phút mặt trời lên để ngẩng mặt với đời, không phải chờ quá lâu…

 

 

Xa rồi ký ức quẩn quanh, “hạt gạo làng ta” đã mang vị phù sa ra khỏi lũy tre làng và đi muôn nơi, dựng tầm vóc của giấc mơ ruộng đồng Việt thành “ông lớn” trên hành trình ra biển lớn. 

Để có được bước đi mạnh mẽ, tự tin đó, là cuộc cách mạng về tư duy sản xuất, thay đổi chất lượng, hương vị của bao nhà, bao người, để khiến bụng dạ thiên hạ không kìm nổi cơn nôn nao phải nếm thử “hạt ngọc trời” của nông dân Việt. 

Phút đăng quang “gạo ngon nhất thế giới” ST25 của ông Hồ Quang Cua, như diễn ngôn đại diện cho tượng đài gạo Việt sừng sững, rằng dẫu quý vị là thực khách khó tính nhất về gạo, thì cũng đành “thất thủ” và chìm trong cơn mê đắm vị ngọt bùi từ ruộng đồng của xứ sở nhiệt đới này.

Đến nay, Việt Nam vẫn là quốc gia thứ 2 thế giới về sản lượng xuất khẩu gạo, đặt chân đến hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, chinh phục được cả những thị trường khó tính như Mỹ và Âu Châu. Năm 2024, hạt gạo Việt lại tiếp tục ghi dấu ấn đậm nét trên thị trường quốc tế, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ấn tượng với mức kỷ lục mới, cao nhất trong lịch sử: đạt 8,5 triệu tấn, mang về 5,31 tỷ USD; giá gạo của Việt Nam vẫn neo ở mức 623 USD/tấn. Vị thế thương hiệu quốc gia Gạo Việt vẫn thống trị thị trường thế giới.

Những cái tên, gạo lứt hữu cơ tím than, gạo Japonica, gạo Jasmine 85, gạo Hương Lài… trở thành quen thuộc với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Nhưng Việt Nam đang đặt “canh bạc” cực kỳ lớn vào cánh đồng, với đề án 1 triệu ha lúa ở ĐBSCL. 

Nỗ lực để thay đổi cung cách làm ăn, cũng là cách giữ được hạt gạo không tuột khỏi tay mình và khiến khẩu vị của thiên hạ luôn ở cơn cồn cào thèm muốn, nông dân Việt đang đi tiếp đường cày mới trên ruộng đồng. 

Thời gian đã chứng minh, những con số xuất khẩu gạo liên tục ở đỉnh cao, là bằng chứng về vững chắc của an ninh lương thực, nâng cao vị thế của Việt Nam, và ở đó gương mặt nhọc nhằn của người nông dân bừng sáng…

HẠT ĐIỀU: Vị bùi lừng danh thế giới

Đất nước vùng châu Mỹ xa xôi là Brazil, lại là nơi phân phối lắm của ngon vật lạ cho thế giới. Vùng Amazon mênh mông thuộc đông bắc xứ sở Samba đó, là nơi sinh ra hạt điều

Nắng gió nhiệt đới chào đón nó, và Việt Nam, như là ý thượng đế, là nơi nó phải dừng chân, trở thành một trong những đường link cho biểu tượng phát triển và liên kết toàn cầu. 

Nhưng, dù có mọc khắp thế giới, thì khi nó có mặt ở Việt Nam, đất và người xứ nông nghiệp này chẳng hiểu sao làm nó mến mộ lạ lùng.

Người ta hay hỏi: Hạt điều Việt Nam nổi tiếng với đặc trưng hạt lớn, màu sáng đẹp, hương thơm khó cưỡng với vị béo ngậy ngây ngất. Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương… là vùng đất có tiếng của sản xuất hạt điều, nhưng tại sao cứ nhắc đến thì lại nghĩ ngay đến Bình Phước với món hạt điều rang muối lừng danh thế giới: “Nhắn ai đi ngược về xuôi - Nhớ về Bình Phước hạt điều muối rang”. 

Với đặc trưng hai mùa mưa nắng tách biệt, thêm vào đó là quỹ đất bazan màu mỡ chiếm 60% diện tích đất toàn tỉnh, người trồng ở đây có kinh nghiệm lâu năm, chịu khó tìm hiểu áp dụng khoa học kỹ thuật, đã làm nên những hạt mẩy, trắng nõn nà, dậy mùi thơm, vị béo ngọt bùi, màu vàng giòn đẹp mắt sau chế biến.

Hạt điều rang vẫn là món trứ danh, nức tiếng từ xưa. Ngày nay, hạt điều còn là nguyên liệu quý để chế biến nhiều món ăn khác, đặc biệt, phần thịt quả điều vốn dĩ “vô dụng” giờ đây lại là nguồn cảm hứng cho các chuyên gia ẩm thực sáng tạo riêng cho các bữa tiệc sang trọng. 

Không những vậy, hạt điều được ví như báu vật cũng bởi giá trị dinh dưỡng đa lượng quý hiếm của nó là protein, carbohydrate, chất béo cùng hàng loạt vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hóa khác. 

Chẳng lạ khi hơn 20 năm về trước, một ông giám đốc lâu năm trong ngành điều nhận xét: “Chỉ cần ăn điều và uống nước cam là đã đủ dinh dưỡng cho cả ngày hoạt động”. 

Không chỉ được ưa chuộng trong nước, hạt điều Việt Nam luôn có vị trí đáng nể trên các kệ hàng tại hơn 90 quốc gia có tiêu chuẩn khắt khe nhất thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Úc, Canada, Đức, Hồng Kong, Singapore, New Zealand, Trung Đông… Việt Nam được ví von là “ông trùm” về xuất khẩu điều nhân chế biến, chiếm hơn 65% sản lượng điều nhân toàn cầu.

Hạt điều Việt luôn tỏa sáng và giữ vững vị trí số 1 thế giới nhiều năm liên tiếp về xuất khẩu với những con số tăng trưởng đẹp. Năm 2024, hạt điều đã mang về con số kỷ lục 4,01 tỷ USD với 674,2 nghìn tấn, tăng trưởng mạnh mẽ 21,4% về giá trị và 16,1% về khối lượng so với cùng kỳ năm trước. 

HẠT TIÊU: “Ngai của ông hoàng đen” đã quay lại

Khi bình quân mỗi tấn hạt tiêu xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2024 đạt 5.198 USD, cao hơn 53,3% so với cùng kỳ của năm 2023, người ta đã không ngại ngần đặt dấu chấm than: Ngai vị 1 tỷ đô đã quay lại với “ông hoàng đen” này!

Hạt tiêu được phát hiện cách đây 2000 năm, từ một loại cây mọc hoang dại tại Ấn Độ, tiêu đã trở thành một loại gia vị xuất hiện trong mọi căn bếp của khắp thế giới. 

Dù là món ăn bình dân, đường phố cho đến bữa tiệc đẳng cấp 5 sao đều không thể thiếu hạt tiêu cho dù biến tấu, sáng tạo với bất kỳ công thức nào. Từ thế kỷ XIX, cây tiêu được người Pháp trồng đầu tiên ở Việt Nam tại Phú Quốc, Kiên Giang, sau đó lan lên vùng đất đỏ bazan Đông Nam Bộ rồi đến miền Trung… 

 

 

Hiện nay, nước ta có 6 tỉnh trọng điểm trong số 18 tỉnh sản xuất hạt tiêu là: Bình Phước, Đắk Nông, Đắk Lắk, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Gia Lai; ngoài ra, Phú Quốc vẫn là thương hiệu lâu năm và nổi tiếng đóng góp quan trọng vào thành công chung của ngành tiêu Việt Nam.

Những biến động thị trường, rồi lối canh tác chặt - trồng đã khiến phận cây tiêu không phải lúc nào cũng suôn sẻ, huy hoàng. Nhưng, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia nổi lên năm 2024 đã phát tín hiệu cho thị trường tiêu bừng lên. 

Tiềm năng sẵn có lẫn kinh nghiệm dày dạn trong trồng, chăm sóc, chế biến đã đưa tổng kim ngạch xuất khẩu tiêu đạt 1,22 tỷ USD với 234,7 nghìn tấn, tăng trưởng mạnh 46,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. 

Đây là một tín hiệu cực kỳ tốt, khẳng định vị thế hạt tiêu Việt Nam dần được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng khó tính của thị trường quốc tế. Việc hạt tiêu Việt Nam vẫn lấy lại được thị phần tại các thị trường tiêu dùng trọng điểm, cho thấy, người tiêu dùng của thị trường khắt khe và bảo thủ ngày càng ưa chuộng hạt tiêu Việt.

“Bé mà cay, nhưng không muốn né”, người ta nói về hạt tiêu Việt như thế. Báu vật của trời đất tặng cho nông dân Việt, góp phần cho phận người trồng bớt nhọc nhằn đắng cay, góp thêm tiềm lực và uy tín cho đất nước. 

Giữ cho ngôi vị này không lung lay, là chuyện không phải may rủi. Nó đòi hỏi sự hợp lực từ nhiều phía, để bước sang năm 2025, ngôi “vua gia vị” vẫn sáng bừng.

SẦU RIÊNG: “Bom tấn” khiến thế giới mê chao đảo

“Có anh thi rớt trở về/ Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn/ Sầu riêng anh chẳng buồn ăn/ Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường”. Chẳng buồn ăn đâu không thấy, năm 2024 này sầu riêng… rượt người tiêu dùng chạy đuối, cứ một chặng lại có một… bom tấn bùng nổ, mà càng nổ, nông dân càng hò reo.

Thứ quả gai góc đậm mùi có nguồn gốc từ Malaysia đã xuất hiện ở Việt Nam từ hơn 100 năm trước. Và cũng từ đó, Việt Nam được mệnh danh là vùng đất sầu riêng với nhiều khu vực trồng nổi tiếng. Nhà nào con nấy, mặt mũi khác nhau, nên mỗi nơi lại cho ra một hương vị sầu riêng độc đáo, khác biệt. 

Cuộc viễn du kiếm chốn an cư của sầu riêng lang thang từ Biên Hoà, sau đó được trồng rộng rãi ở khu vực ĐBSCL, Đông Nam Bộ rồi lên Tây Nguyên, và xứ sở cao nguyên này chính là vựa sầu riêng lớn nhất Việt Nam, là nguồn cung xuất khẩu của sầu riêng Việt ra thị trường thế giới.

Kẻ sành sầu, nhấm nháp sẽ biết trên bàn tiệc la liệt món thơm đậm mùi đó, là con cái nhà ai. Đây, sầu riêng Đăk Lăk gây ấn tượng mạnh nhất với người tiêu dùng từ hương vị đầu tiên: mùi thơm nhẹ nhưng lan xa, múi dày có vị ngọt sâu, độ dẻo sánh béo ngậy không thể nhầm lẫn với bất kỳ loại nào khác. 

Sầu riêng Bến Tre (Cái Mơn) lại được nhiều người biết nhất trong các vùng sầu riêng miền Tây, nằm trong danh sách trái cây ngon nhất Đông Nam Á. 

Được thiên nhiên ưu ái về khí hậu lẫn thổ nhưỡng nên sầu riêng Cái Mơn - Bến Tre rất “xịn”, thịt quả dày, mùi thơm thoang thoảng dễ chịu, vị ngọt thanh mát, phù hợp với khẩu vị tinh tế. Sầu riêng Cần Thơ dù không nổi tiếng bằng nhưng được tín đồ “quả gai” rất yêu thích bởi vỏ mỏng, hạt nhỏ và độ ngọt cân bằng. 

Như đã nói, năm qua là cuộc leo thang của quả sầu riêng, với những khung giá chớp nháy liên tục, mà đường đua đâu chỉ mỗi sầu riêng Việt Nam. 

Không hề được ưu ái khi sự khắc nghiệt trên bàn cân luôn là phép thử sản phẩm của người tiêu dùng, sầu riêng Việt đã không hổ danh “vua trái cây nhiệt đới”, khi  chiếm một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, với con số lịch sử: chạm mốc 3,5 tỷ USD!.

Không sầu và chắc hẳn sẽ không sầu với sầu riêng, vào 2025, khi Trung Quốc là thị trường tiêu thụ lớn nhất, ước tính chiếm đến 92% khối lượng xuất khẩu sầu riêng Việt Nam. Con số này được dự báo sẽ còn tăng mạnh, đặc biệt là sau khi nghị định thư xuất khẩu sầu riêng đông lạnh sang Trung Quốc được ký kết vào ngày 19/8/2024. Cánh cửa lớn đã mở toang lần nữa.

CHUỐI: Mạch ngầm chưa từng cạn

“Chuối sau cau trước” là câu thành ngữ lâu đời cho thấy sự phổ biến, gần gũi và gắn bó của hình tượng cây chuối trong văn hoá đời sống người Việt. 

Trong thế giới ẩm thực, chuối như một nhà ảo thuật kỳ bí, có thể đơn giản được dùng tươi, làm nguyên liệu chế biến bánh, kẹo hoặc sấy khô. Có mặt trong những món ăn dân dã cho đến những món ăn cầu kỳ bất kể món Á hay Âu. Chưa kể, chuối còn được sử dụng để làm các sản phẩm chế biến khác như rượu, giấm, bột chuối… 

Thân cây chuối, hoa chuối cũng là nguyên liệu thú vị để sáng tạo nhiều món ngon. Thậm chí có vô số món ăn phải được gói trong lá chuối mới thể hiện được trọn vẹn hương vị vốn có, do vậy, lá chuối cũng là một sản phẩm tiềm năng xuất khẩu trong tương lai. 

“Quốc bảo” là một từ không ngoa khi nói về chuối Việt. Bởi ngoài tính ứng dụng đa năng, chuối là nguồn cung cấp dồi dào năng lượng, sở hữu nhiều vitamin và khoáng chất quý, hỗ trợ rất tốt cho tim mạch, hệ tiêu hoá và cả tăng cường đề kháng. 

Sự tổng hoà những giá trị dinh dưỡng, kinh tế và văn hoá, chuối là một loại trái cây không thể thiếu với cuộc sống và ngành nông nghiệp Việt Nam.

Hiện nay, cây ăn quả quen thuộc này nằm trong top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam với hơn 130.000ha đất trồng, cho sản lượng lên đến 2,1 triệu tấn mỗi năm. Được trồng tại nhiều nơi, nhưng Đồng Nai mới thực sự là “xứ chuối” của Việt Nam. 

Không chỉ dẫn đầu về số lượng, chuối Đồng Nai còn nổi tiếng về chất lượng. Các giống chuối cao được chăm sóc kỹ lưỡng theo đúng qui trình công nghệ cao, chuối chín vàng ươm, căng mọng, ngọt ngào, giàu chất dinh dưỡng, chinh phục được cả những khách hàng khó tính nhất. 

Cũng chính vì thế, chuối… rời nhà, đi xa và làm mát mặt xứ sở. Con số giá trị xuất khẩu chuối Việt Nam năm nay đạt gần 400 triệu USD, tăng 20% so với năm 2023, trong đó Trung Quốc đã… bị chuối Việt thống trị nửa thị trường, vượt mặt Philippines, trở thành “vua chuối” ở xứ này.

THANH LONG: “Rồng xanh” tung cánh năm châu 

Chẳng biết “bén duyên” với mảnh đất Bình Thuận từ lúc nào nhưng thanh long – “rồng  xanh” đã gắn bó thành thể không tách rời, và cũng là biểu tượng sống động của vùng cực Nam Trung Bộ nhiều nắng gió này. 

Ngày xưa, thanh long chỉ là loại cây trồng ven bờ rào của vườn nhà để lấy quả ăn chơi, những quả to đẹp thì để dâng cúng bàn thờ vào ngày rằm hay dịp Tết. Không ai thấy bất kỳ một giá trị gì khác, dù người ta hay dặn dò nhau: “Giận thì ăn trái thanh long/ Bao nhiêu mưa gió trong lòng, nói ra”.

Cho đến những năm 1990, một vài thương nhân Đài Loan khám phá ra hương vị độc đáo của thanh long Bình Thuận. Từ đó, những “rồng xanh” đầu tiên vượt đại dương chinh phục một số nước Châu Á rồi lan rộng ra những thị trường quốc tế khác, mở ra thời kỳ hưng thịnh của loại quả này.

Chính màu đỏ mọng trông khá bắt mắt, trái không quá to, khi ăn vào có vị ngọt vừa, thanh mát đặc trưng, đã khiến thanh long nổi bật giữa muôn trùng cây trái. 

Nhưng, giá trị dinh dưỡng cao của quả có vỏ lạ này mới là đáng nói. Với nguồn dinh dưỡng dồi dào như protein, vitamin C, B, chất xơ… thanh long là loại quả mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho con người. 

Theo nghiên cứu, trung bình một quả thanh long chứa 60 đơn vị calo, 60 mg natri, 8g đường, 2mg chất béo không bão hòa và 2mg protein. Ăn một quả thanh long sẽ cung cấp 34% lượng vitamin C cần thiết cho cơ thể mỗi ngày.

Ngày nay, thanh long gần như có mặt khắp các thị trường lớn, như Ấn Độ, Hàn Quốc , Hoa Kỳ, cả những quốc gia Trung Đông như UAE (35,3%). Với thị trường Trung Quốc đại lục, Việt Nam là nhà cung cấp thanh long hàng đầu, chiếm đến 90%. Đặc biệt, thanh long Việt Nam đã có mặt tại nhiều hệ thống siêu thị lớn và được người dân Austra
lia đánh giá 5 sao. Đây là một điều tự hào bởi thị trường này vốn có điều kiện nhập khẩu khắt khe nhất nhì thế giới. 

Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thanh long Việt Nam đạt 2,7 triệu USD, cho thấy sức hút mạnh mẽ của thương hiệu “siêu trái cây” này trên bản đồ nông sản thế giới.  

Không chỉ ăn tươi, thanh long còn là một “ngôi sao sáng” trong ngành chế biến thực phẩm như làm nước ép, mứt, bánh mỳ, bánh ngọt hoặc các sản phẩm sức khoẻ khác. Thử nếm đi, “rồng xanh” dịu ngọt khiến bao bức bối ra đi, và suối nguồn tươi mát lại về.

XOÀI: Quả ngọt của đất trời

Có lúc ngồi nhẩm tính, suýt… xây xẩm, rằng Việt Nam sở hữu bộ giống xoài rất phong phú với 46 giống khác nhau, trong đó nổi bật nhất là các giống xoài có giá trị thương mại cao như xoài cát Hoà Lộc, xoài Cát Chu, xoài Keo, xoài Xiêm núm, xoài Thanh Ca, xoài Yên Châu… 

Mỗi giống xoài mang hương vị đặc trưng riêng, gắn với đời sống và bản sắc văn hóa từng vùng miền, từ miền Tây sông nước đến núi rừng Tây Bắc, mặc sức tốt tươi, thỏa mãn nhu cầu ẩm thực của người tiêu dùng. 

Theo số liệu thống kê mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tổng diện tích trồng xoài cả nước hiện đạt trên 114.000ha; trong đó Đồng Tháp là một trong những tỉnh trồng xoài nhiều nhất nước. 

Đặc biệt, diện tích trồng xoài đạt tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP tại vùng này khoảng 2.000ha, chiếm gần 4% tổng diện tích, đây là minh chứng cho sự chuyển dịch sang mô hình nông nghiệp bền vững.

Cuộc trình diễn mùi vị của xoài chẳng khác sầu riêng ở độ đa dạng, tạo thành lực lượng fan hâm mộ đông đảo. Thế nhưng, bá tánh luôn có ngôi chủ. Đến bây giờ xoài cát Hoà Lộc - giống xoài đặc sản đã trở thành thương hiệu nổi tiếng của vùng Tiền Giang vẫn dẫn đầu bảng về độ ngon và thu hút lượng người tiêu dùng. 

Loại quả này thường được sử dụng khi chín bởi vị thơm nức, dễ chịu, ngọt đậm không gắt, sau khi ăn xong vẫn còn vị thơm trong miệng suốt thời gian dài. Loại xoài này không chỉ để ăn trực tiếp mà người ta còn dùng để xay sinh tố, làm kem, làm hoa quả dầm.

Hiện nay, xoài Việt Nam đã chu du khắp thế giới, có mặt tại 40 quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu xoài thứ 13 trên thế giới. Thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, chiếm gần 84% sản lượng; tiếp đến là Nga, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, EU, Australia và Nhật Bản… mang về kim ngạch xuất khẩu đạt 650 triệu USD. Không chỉ là siêu phẩm kinh tế, xoài còn mang giá trị văn hoá sâu sắc. 

Trong đời sống người Việt, xoài không thể thiếu trong mâm ngũ quả ở các dịp quan trọng, mang ý nghĩa cho sự sung túc và may mắn. Trong ẩm thực, xoài là nguyên liệu chính của nhiều món ăn độc đáo từ gỏi ăn chơi khai vị, món chè tráng miệng, sinh tố giải khát cho đến các loại bánh ngọt, mứt sấy.

Cái quả ngon ngọt lành hiền và thanh lịch này chứa đủ sự phong phú và tinh tế của đất trời Việt Nam, và bắt thêm chiếc cầu nối đưa văn hoá Việt Nam ra thế giới.

BƯỞI: Đến cả hương hoa cũng khiến người bối rối

Bưởi là một loại trái cây đặc sản nổi tiếng, từ xưa đã là tín hiệu của sự sum họp. Sở hữu hương thơm dịu dàng và thuần khiết, vị ngọt tinh tế hài hoà với chút chua thanh, bưởi là loại trái cây giải nhiệt mùa hè và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho ngành ẩm thực, mỹ phẩm, và cả hương liệu nước hoa…

Việt Nam sở hữu một “bộ sưu tập” các giống bưởi đa dạng, mỗi loại đều mang một hương sắc riêng. Cả nước có khoảng 105.400ha trồng bưởi với sản lượng đạt gần 905.000 tấn. 

Bưởi da xanh với lớp vỏ xanh bóng, múi thịt mọng nước, vị ngọt thanh nhã là niềm từ hào của người dân Bến Tre, đây cũng là giống bưởi chủ lực của khu vực. Vĩnh Long thì có thương hiệu bưởi Năm Roi với dáng thon dài, thịt màu vàng óng, vị ngọt sắc sảo. 

Lạ lùng nhất có lẽ là bưởi Diễn Hà Nội, vỏ bưởi khi chín có màu vàng buồn, vị ngọt sâu và mọng nước, để càng lâu ăn càng ngon, cây trồng lâu năm thì quả càng nhỏ và càng ngọt. 

Bên cạnh đó còn có bưởi Đoan Hùng ở Phú Thọ có vị đậm đà, bưởi Phúc Trạch ở Hà Tĩnh thì có vị chua thanh nhẹ được ví như “ngọc xanh” của miền Trung. 

Bưởi không chỉ ngon miệng mà còn giàu vitamin C, chất xơ và chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, đẹp da và hỗ trợ tiêu hoá. Chính những giá trị này khiến bưởi có sức hút mạnh mẽ với thị trường quốc tế. 

Bưởi da xanh là “con cưng” của ngành xuất khẩu trái cây, chủ yếu từ các tỉnh Bến Tre, Long An, Sóc Trăng, Hậu Giang. Đến nay, bưởi da xanh có mặt tại hàng loạt thị trường khác nhau trên thế giới, đặc biệt là những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nga, Chile, Canada và mới nhất là Hàn Quốc. 

Dự báo năm 2025, Việt Nam có khả năng sẽ mở rộng thêm thị trường xuất khẩu chính ngạch đối với trái bưởi, với sự tham gia của Australia.

Con số ấn tượng, là năm 2024, kim ngạch xuất khẩu bưởi của Việt Nam tăng 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt xấp xỉ 50,56 triệu USD. Chính vì thế, sự hiện diện của loài cây, mà cả đến hương hoa cũng khiến người ta bối rối trong dàn hợp xướng làm nên tầm vóc của nông sản Việt, khiến người ta tấm tắc.

DỪA: “Tân binh” trong đội ngũ xuất khẩu tỷ đô

Nông sản Việt Nam liên tiếp đón nhận những tin vui khi hàng loạt mặt hàng được cấp “VISA” xuất khẩu chính ngạch vào các thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới. Trong đó, dừa tươi là ngôi sao đang lên với giá bán tăng mạnh. 

Việc ký nghị định thư với Trung Quốc vào ngày 19/8/2024 cho việc xuất khẩu dừa tươi giúp xuất khẩu dừa đạt 250 triệu USD. để rồi sau đó con số xuất khẩu dừa Việt Nam năm 2024 đạt hơn 312,9 triệu USD, tăng 60,5% so với cùng kỳ năm 2023, khiến người ta có quyền nghĩ “tân binh” này sẽ gia nhập đội ngũ tỷ USD. 

Dáng cây đã đi vào thơ ca nhạc họa, quen với người ĐBSCL như cây tre ở miền Trung nắng gió, từ chỗ chỉ thỏa mãn cơn khát, đi vào bữa ăn dưới nhiều hình thức, đến lợp nhà che nắng mưa, rồi vươn mình xuyên biên giới. Sự cố gắng không mệt mỏi của những người trồng dừa đã lột xác đổi đời cho cây. 

Năm 2024 chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của dừa. Diện tích trồng dừa và sản lượng đứng thứ 5, năng suất đứng thứ 3 và dù là tân binh, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 4 thế giới. 

Một ngành công nghiệp dừa đang mạnh lên với những đột phá về sản phẩm, chất lượng, mẫu mã, hình thức tiếp cận, phát triển đa ngành có ứng dụng công nghệ, mở rộng biên độ thị trường, với khoảng 854 doanh nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm từ dừa với nhiều loại hình và quy mô khác nhau, nâng tầm vị thế dừa Việt Nam trên thương trường thế giới.

Đến bây giờ, ngay cả người lạc quan nhất cũng chẳng ngờ, dừa Việt Nam đã được xuất khẩu tới 124 quốc gia trên thế giới. ấn tượng người dùng lẫn kim ngạch xuất khẩu đều tăng tại 5 thị trường lớn là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan, Australia và Ai Cập.

Nhu cầu tiêu thụ dừa trong nước và thế giới ngày càng tăng bởi ứng dụng của nó vô cùng phong phú. Mà một minh chứng, là than dừa Việt đã trở thành con cúi mồi thuốc lá cho những ông hoàng xứ “Ngàn lẻ một đêm” ngồi tận hưởng túc cầu. Tăng trưởng bất ngờ trong thời gian tới, chuyện sẽ không lạ với ngành dừa.

MĂNG CỤT: “Nữ hoàng trái cây nhiệt đới”

Măng cụt được phong là “nữ hoàng trái cây nhiệt đới” bởi vẻ đẹp ngoại hình và hương vị quyến rũ khiến ai cũng “phát cuồng”. Quả măng cụt có vỏ dày màu xanh, khi chín chuyển dần sang tím đậm ôm trọn những múi thịt trắng ngà, ngọt thanh tao. 

Có người bảo rằng, mỗi khi thưởng thức măng cụt, ta như lạc vào khu vườn nhiệt đới xanh tươi, chìm đắm trong hương thơm dịu ngọt, tràn đầy sức sống và quên đi mọi phiền muộn. 

 

 

Không chỉ khiêu khích giới ẩm thực từ hương vị, măng cụt còn là một “phương thuốc thiên nhiên”. Trong măng cụt có chứa tới 40 loại xanthone - chất chống oxy hóa mạnh mẽ, kháng khuẩn, kháng viêm và tăng cường hệ miễn dịch. 

Thêm vào đó, nó còn hỗ trợ giảm cholesterol, hạ sốt và giảm thiểu các bệnh về trí nhớ. Và vẫn là Nam Bộ - nơi để măng cụt thi nhau cho quả ở khắp các tỉnh như Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bình Dương, Đồng Nai… với diện tích canh tác khoảng 7.600ha. 

Cứ vào mùa trái chín, không khó để thỏa cơn nghiền khi măng cụt bày bán khắp nơi. Và đâu chỉ “con hát mẹ khen hay”, “nữ hoàng” đã đi… kinh lý các vùng đất khác và chinh phục người tiêu dùng ở đó. Theo một cuộc khảo sát của Hiệp hội Thương mại Hoa quả Việt Nam, 95% người tiêu dùng Trung Quốc hài lòng với chất lượng măng cụt Việt Nam. 

Họ cho rằng măng cụt Việt Nam có hương vị thơm ngon, ngọt thanh, thịt quả chắc, hạt nhỏ, và vỏ quả mỏng. Ngoài Trung Quốc và Mỹ đang là 2 thị trường xuất khẩu chính, lần lượt đạt hơn 50.000 tấn và 150.000 tấn, chiếm 49,8% và 15,2% thị phần, măng cụt Việt Nam còn làm say lòng người tiêu dùng khó tính ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Hà Lan, Canada Australia…

Hiện nay, thị trường nội địa vẫn là nơi tiêu thụ lớn nhất của sản phẩm măng cụt Việt Nam, chiếm đến 60 – 70%, chỉ có khoảng 30 – 40% sản lượng măng cụt được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 

Tương lai, con số này có thể biến động theo hướng gia tăng sản lượng xuất khẩu khi măng cụt Việt Nam đáp ứng được những tiêu chuẩn của thị trường quốc tế.

CHANH LEO: Top 3 thế giới về xuất khẩu

Từ những năm 90, người ta bắt đầu thấy xuất hiện một thứ quả mới, có tên là chanh dây. Nó bắt đầu được trồng thương mại ở Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên như Lâm Đồng, Đăk Nông, Đăk Lăk. 

Có ý kiến, rằng loại cây này nguồn gốc từ Nam Mỹ, nhưng chẳng ngờ nó nhanh chóng bén rễ và thích nghi tốt ở nhiều vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới trên thế giới, bao gồm Việt Nam.

Chanh leo có giá trị cao cả về mặt kinh tế lẫn dinh dưỡng. Đây là loại quả cung cấp nguồn vitamin phong phú và dồi dào (C, A và nhóm B); chứa thành phần khoáng chất đa dạng như kali, canxi, magie…; đặc biệt nhất là sở hữu hàm lượng chất chống oxy hóa khá cao, giúp bảo vệ tế bào da và ngăn ngừa lão hoá. 

Chanh leo có giá trị xuất khẩu cao cũng bởi nhiều ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày. Chanh leo có thể ăn tươi đơn giản kèm với một số món ăn nhẹ khác. Phổ biến nhất là chế biến các loại đồ uống như sinh tố, nước ép, cocktail… Loại quả này còn là nguyên liệu chính để chế biến các món ăn hấp dẫn như mứt, bánh ngọt, kem, sữa chua, món mặn…

“Nội lực” thâm hậu vậy, thì chẳng ngạc nhiên loại trái cây này chẳng chịu nằm yên trên bàn ăn người Việt. Tới nay, Việt Nam đứng thứ 3 toàn cầu về xuất khẩu chanh leo, chỉ xếp sau Peru và Brazil. Chanh leo Việt Nam đã xuất khẩu được sang 20 quốc gia dưới nhiều dạng sản phẩm khác nhau như quả tươi, đông lạnh và nước ép. 

Bất ngờ, chanh leo Việt đáp ứng được các yêu cầu cao và nghiêm ngặt về chất lượng, kiểm dịch, an toàn vệ sinh thực phẩm tại những thị trường vô cùng khắt khe như Australia, Pháp, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc… 

Trong nhiều năm nay chanh leo luôn nằm trong Top 10 loại trái cây có giá trị xuất khẩu cao. Năm 2024, con số này là hơn 120 triệu USD. Với nhu cầu lớn của thị trường, dự báo, kim ngạch xuất khẩu mỗi năm sẽ đạt từ 50 - 100 triệu USD, nhất là khi Mỹ đã mở cửa cho chanh leo lên bàn ăn của thị trường cao cấp này.

Cánh cửa cơ hội mở ra rất lớn. Đón đầu và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chí, tiêu chuẩn của thế giới, khi mọi trái cây đều có “cửa” ngang nhau, thì nâng con số kim ngạch lên mức dự báo ở tương lai gần, là không khó. Có lẽ người sản xuất và nhà xuất khẩu hiểu hơn ai hết sức hấp dẫn đó, và làm được điều đó cũng chính là giữ được ngôi vị đang có.

Theo Nông Thôn Việt 

← Bài trước Bài sau →
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Bình luận