Để nông nghiệp hữu cơ phát triển đúng hướng và xứng tầm
- Người viết: Le Hoai lúc
- Ứng dụng Công nghệ
- - 0 Bình luận
Nông nghiệp hữu cơ đang dần trở thành xu thế toàn cầu, là trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sức khỏe và môi trường.
Diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ chỉ chiếm 1,41%
Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Phạm Văn Duy cho biết, nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng nhận được sự quan tâm sâu sắc của người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực. Diện tích canh tác hữu cơ tăng lên, ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác xã quan tâm đầu tư và người tiêu dùng bắt đầu tin tưởng vào các sản phẩm sạch bền vững.
Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ phát triển chưa đồng đều giữa các vùng miền, chuỗi giá trị liên kết còn thiếu, khâu kiểm soát chứng nhận chất lượng chưa thực sự đồng bộ. Do đó, việc tạo không gian đối thoại giữa các bên liên quan; chia sẻ các chính sách, quy trình, mô hình thực hiện của Đan Mạch trong sản xuất và chứng nhận nông nghiệp hữu cơ; lắng nghe những câu chuyện thực tế từ các trang trại tiên phong trong nước; cùng nhau thảo luận các sáng kiến và giải pháp thiết thực để mở độ quy mô và nâng cao hiệu quả ngành nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam là rất quan trọng.
Ông Trương Xuân Sinh - Trung tâm Kiểm nghiệm, kiểm chứng và dịch vụ chất lượng (RETAQ) thuộc Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - cho biết, theo số liệu cập nhật mới nhất, hiện, diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ khoảng 174.579,6 ha, chiếm 1,41% so với diện tích sản xuất nông nghiệp; giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khoảng 20 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Khẳng định Việt Nam có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi; nhiều sản phẩm nông sản có lợi thế cạnh tranh như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè, trái cây nhiệt đới, thủy sản…; nguồn lao động dồi dào; Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) giúp mở rộng thị trường nông sản. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đang đối diện với nhiều khó khăn từ thị trường, chính sách, chi phí sản xuất cao, dẫn đến giá sản phẩm cao, sản xuất manh mún, kỹ thuật công nghệ và trình độ lao động còn thấp.
Cần có quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Khẳng định tiềm năng cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn rất lớn, tuy nhiên, để đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực này, ông Trương Xuân Sinh cho rằng, cần có quy hoạch vùng sản xuất.
Theo ông Trương Xuân Sinh, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ gắn với xây dựng thương hiệu; gắn với chuyển đổi xanh và sản xuất thực phẩm bền vững; gắn với phát thải ròng bằng 0; gắn với du lịch sinh thái… sẽ giúp nông nghiệp hữu cơ ổn định lâu dài và giảm thiểu chi phí.

Chăm sóc rau hữu cơ tại trang trại Hoa Viên, xã Yên Trung (huyện Thạch Thất).
Bên cạnh đó, cần số hóa hồ sơ sản xuất, kinh doanh và truy xuất nguồn gốc. Nâng cao kiến thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ cho nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng. Tối ưu hóa, giảm chi phí chứng nhận hữu cơ bằng cách đánh giá duy trì chứng nhận thay cho chứng nhận lại cùng với việc tăng cường giám sát từ cộng đồng. Xây dựng cộng đồng sản xuất, tiêu thụ, kênh phân phối.
Các chuyên gia cũng nhận định, hiện nay, quan điểm của người tiêu dùng đã khác. Họ ăn ngon thôi chưa đủ, cần ăn sạch, lành mạnh. Điều này tác động lớn tới các phương thức canh tác hiện nay, đòi hỏi người nông dân, nhà sản xuất phải cùng nhau gắn kết để tạo nên sự thay đổi cho nền nông nghiệp Việt Nam.
Học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế, thúc đẩy liên kết chuỗi
Chia sẻ tại hội thảo "Phát triển Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam", do Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch vừa tổ chức tại Hà Nội, các chuyên gia đến từ Đan Mạch - quốc gia được đánh giá là hình mẫu trong phát triển nông nghiệp hữu cơ, cho biết, từ năm 1987, Đan Mạch đã ban hành luật riêng về sản xuất hữu cơ, trở thành nước đầu tiên trên thế giới làm điều này. Tới nay, khoảng 12% diện tích đất nông nghiệp của Đan Mạch canh tác theo phương pháp hữu cơ và người tiêu dùng tại đây đặc biệt ưa chuộng thực phẩm hữu cơ.

Để nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam phát triển đúng hướng và xứng tầm, nhiều chuyên gia khẳng định cần có chiến lược tổng thể cấp quốc gia.
Theo đại diện Đan Mạch, một trong những yếu tố thành công then chốt là áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ một cách xuyên suốt trong toàn bộ chuỗi giá trị - từ nông trại đến bàn ăn. Sản phẩm chỉ được cấp nhãn hữu cơ khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, đồng thời trải qua hệ thống kiểm soát chặt chẽ, bao gồm kiểm tra định kỳ, đột xuất từ cơ quan chức năng địa phương.
Từ năm 2009, Đan Mạch còn mở rộng việc dán nhãn hữu cơ cho cả bếp ăn công cộng như trường học, nhà hàng, giúp người dân yên tâm lựa chọn thực phẩm sạch ngay cả ngoài gia đình.
Sự hợp tác chặt chẽ trong toàn bộ chuỗi giá trị và các bên liên quan đã đưa Đan Mạch trở thành quốc gia không chỉ thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong nước mà còn cung cấp cho người tiêu dùng trên toàn thế giới những thực phẩm được sản xuất theo cách hữu cơ.
Bài học lớn từ Đan Mạch là sự phối hợp hiệu quả giữa các bên trong chuỗi giá trị: Nhà nước xây dựng luật và kiểm soát chặt chẽ, doanh nghiệp đầu tư sản xuất và phát triển thị trường, nông dân được đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật, người tiêu dùng được tuyên truyền nâng cao nhận thức. Mô hình này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng nội địa mà còn giúp Đan Mạch trở thành nước xuất khẩu thực phẩm hữu cơ có uy tín trên thế giới.
Để nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam phát triển đúng hướng và xứng tầm, nhiều chuyên gia khẳng định cần có chiến lược tổng thể cấp quốc gia, với trọng tâm là quy hoạch vùng sản xuất hữu cơ phù hợp từng vùng sinh thái; hoàn thiện khung pháp lý, bộ tiêu chí thống nhất và minh bạch; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; và quan trọng nhất là phát triển chuỗi liên kết giữa nông dân-doanh nghiệp-thị trường.
Việc gắn sản xuất hữu cơ với xây dựng thương hiệu quốc gia, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và du lịch sinh thái… sẽ giúp tăng giá trị sản phẩm và tạo động lực lan tỏa trong cộng đồng sản xuất. Đồng thời, ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh số hóa thông tin sản xuất, truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng hệ thống chứng nhận và kiểm tra, tối ưu hóa chi phí để doanh nghiệp và người dân dễ tiếp cận hơn.
Người tiêu dùng hiện đại không chỉ cần ăn ngon mà còn muốn ăn sạch và lành mạnh. Đó là xu thế không thể đảo ngược. Vì vậy, phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành nông nghiệp mà cần sự phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội để tạo nên thay đổi căn bản trong cách nghĩ, cách làm và cách tiêu dùng - vì một nền nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập quốc tế./.
Theo Kinh tế Nông Thôn







Viết bình luận
Bình luận